Nhưng ngay từ thời điểm có chủ trương đầu tư cho dự án, đã có nhiều ý kiến chuyên gia cảnh báo dự án sẽ thua lỗ. Một số chuyên gia về công nghệ thông tin từ những năm 2007, 2008 đã tính toán rằng: Vinasat-1 là vệ tinh cỡ nhỏ, có 20 bộ phát đáp, mỗi bộ cho dung lượng 34 Mbps, như vậy Vinasat-1 tạo được ra dung lượng 680 Mbps mỗi chiều up/down. Cách đây mươi năm, 680 Mbps là một dung lượng kết nối khổng lồ, có lẽ đủ cho cả châu Á dùng cũng không hết. Nhưng với cuộc cách mạng internet băng rộng, giờ đây 680 Mbps may lắm thì cũng chỉ đủ phục vụ cho một quận ở Hà Nội hoặc TP.HCM. Các chuyên gia thời đó đã tính rằng: để có 680 Mbps mỗi chiều phủ khắp Việt Nam, có thể thuê ngay vệ tinh của Thaicom, giá bán không mặc cả là 1.000 USD/Mbps/một chiều/tháng… rẻ hơn nhiều chi phí đầu tư của Việt Nam (còn bị đội lên do lãi suất, trượt giá, chi phí vận hành…)
Như vậy, đây có thể coi như một ví dụ điển hình nữa về lãng phí trong chủ trương đầu tư (sai lầm). Kỳ họp Quốc hội mới đây, các đại biểu quốc hội đã đóng góp nhiều ý kiến cho dự án luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí (sửa đổi), nhưng câu chuyện lãng phí về chủ trương đầu tư dường như chưa được quan tâm nhất, cho dù, đã có những quan điểm cho rằng, đây mới là một trong những khâu gây lãng phí lớn nhất cho nguồn lực tài chính quốc gia. Mà nguyên nhân chính, là những người ra quyết định đầu tư đã không xem xét toàn diện đến lợi ích, tác động của chủ trương đầu tư đó mang lại. Không những thế, lại không nghe đầy đủ những ý kiến phản biện để rồi tiếp tục có những quyết định, chủ trương đầu tư sai lầm.
Không chỉ có dự án Vinasat-1 và 2, chúng ta rất dễ thấy những chủ trương đầu tư lớn khác đã và đang gây nhiều thiệt hại cho đất nước. Những chủ trương đầu tư mang tính đầu tư phong trào như: đầu tư hàng loạt các nhà máy ximăng lò đứng trước đây, xây dựng các cảng biển, sân bay quá gần nhau… đã gây ra tình trạng lãng phí lớn mà đến nay, hậu quả của nó vẫn còn đó.
Nhà nước đang thiếu một cơ chế để buộc những người ra quyết định, chủ trương phải xem xét, lắng nghe đầy đủ những ý kiến phản biện, góp ý từ các chuyên gia, từ người dân…và phải chịu trách nhiệm khi quyết định đó là sai lầm, gây hậu quả kinh tế – xã hội nghiêm trọng. |
Hay ở các dự án, công trình phục vụ các lễ kỷ niệm, đại lễ của các địa phương, điển hình như đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Báo chí trong thời gian này vẫn điểm mặt, chỉ tên những công trình đang xuống cấp tệ hại như bảo tàng Hà Nội, công viên Hoà Bình…những hình ảnh về sự xuống cấp của các công trình này khiến ai trông cũng phải xót ruột, vì tiền đầu tư lớn nhưng kết quả tệ đến như vậy. Báo VnExpress mới đây cũng đăng tải hình ảnh xuống cấp của bảo tàng Phú Yên bị nứt nẻ, mối mọt…chỉ sau đúng một năm xây dựng chào mừng kỷ niệm 400 năm tỉnh Phú Yên.
Hay ở các dự án đầu tư sản xuất xăng ethanol của tập đoàn Dầu khí. Vốn đầu tư hàng chục ngàn tỉ đồng nhưng đến nay, cũng có thể coi là những dự án đầu tư sai lầm do sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, thua lỗ và gây khó khăn lớn cho hàng vạn hộ dân đã phải chuyển canh tác sang trồng sắn ở các vùng dự án.
Không thể kể hết những dự án, công trình đầu tư sai ngay từ khâu chủ trương, gây lãng phí bởi chúng quá nhiều, có thể thấy ngay trong các báo cáo tổng hợp thanh tra của Thanh tra Chính phủ, của Kiểm toán Nhà nước hàng năm. Nhưng đáng nói nhất là ngay ở cả những công trình lớn, có vốn đầu tư hàng ngàn tỉ đồng trở lên, chưa thấy mấy ai phải chịu trách nhiệm về việc ra quyết định đầu tư sai. Nhà nước đang thiếu một cơ chế để buộc những người ra quyết định, chủ trương phải xem xét, lắng nghe đầy đủ những ý kiến phản biện, góp ý từ các chuyên gia, từ người dân… và phải chịu trách nhiệm khi quyết định đó là sai lầm, gây hậu quả kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Thiếu vắng một cơ chế này, lãng phí vốn đầu tư, nguồn lực tài chính, đất đai… cho nhiều dự án, chương trình sẽ còn tái diễn. Trong khi những nguồn lực ấy lại rất cần cho nhiều công trình, dự án cấp thiết khác.
Theo Mạnh Quân
Sài gòn Tiếp thị
26 comments